Điện Biên một chuyến vui trời đất
Gặp cựu chiến binh thỏa mong chờ
Ông là chiến sĩ miền Tây Bắc
Cháu gắng sức phát triển quê hương
Ngày đại hỉ cô dâu Minh Châu
Em Tú Chi chia vui cùng chị
Đồi A1 đã từng ghé thăm
Ghi dấu ấn cha ông để lại
Cựu binh Điện Biên Phủ với những ký ức về chiến trường xưa
02 Tháng Năm 2014 - 17:44:27
(VOV5) - 60 năm về trước, chiến sỹ trẻ Phạm Đức Cư cùng những đồng đội của mình, khi đó chỉ mới ngoài 20 tuổi, tham gia vào trung đoàn pháo binh, trực tiếp chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Với tinh thần, ý chí ngoan cường, các pháo thủ cao xạ đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" ngày ấy. Chiến tranh qua đi, nhưng cựu chiến binh Phạm Đức Cư vẫn nhớ như in ký ức của những ngày chiến đấu đầy gian khổ nhưng cũng rất đỗi tự hào của các pháo thủ trung đoàn pháo cao xạ 367.
Cựu chiến binh Phạm Đức Cư hồi tưởng những ngày cùng đồng đội chiến đấu đánh bại quân xâm lược trên quê hương
Chúng tôi tới thăm cựu pháo thủ Phạm Đức Cư khi ông đang chuẩn bị những tài liệu lịch sử cho buổi nói chuyện với thế hệ trẻ tỉnh Điện Biên vào ngày hôm sau. Dù đã ngoài 80 tuổi nhưng ông thường là nhân vật chính của những buổi giao lưu với các trường học, các đoàn thể trên địa bàn tỉnh, kể chuyện về những ngày ông cùng đồng đội trong trung đoàn pháo cao xạ 367 chiến đấu tại chiến trường Điện Biên Phủ để truyền cho thế hệ trẻ nhiệt huyết tuổi trẻ thời chiến cũng như tình yêu quê hương, đất nước. Mỗi lần như vậy, ông lại khoác trên mình bộ quân phục đã bạc màu, trên ngực áo là rất nhiều tấm huân, huy chương mà Đảng, Nhà nước trao tặng vì những đóng góp của ông trong chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước sau này. Ông Cư vẫn nhớ như in từ ngày ông mới tham gia quân đội, cho tới những ngày ông sát cánh cùng đồng đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Khi đó, ông là một trong số những chiến sỹ trong lực lượng quân chủ lực Việt Nam được chọn đi đào tạo về pháo cao xạ tại Trung Quốc từ năm 1952. Năm 1953, ông trở về nước tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngay từ ngày đầu, những pháo thủ đã được tuyển chọn rất gắt gao. Họ phải là chiến sĩ đã kinh qua chiến đấu, thể hiện tinh thần dũng cảm, nhanh nhẹn, có sức khỏe tốt, trung thành với cách mạng. Trải qua chặng đường vất vả từ tháng 12/1953 đến đầu tháng 1/1954, các pháo thủ trung đoàn 367 đã đưa được 12 khẩu pháo, mỗi khẩu nặng 2,4 tấn vào trận địa Điện Biên Phủ. Cựu pháo thủ Phạm Đức Cư nhớ lại: "Những người lính pháo cao xạ tham gia chiến dịch mùa xuân năm 1954 không bao giờ có thể quên được những chặng đường kéo pháo từ Nà Nhạn vào trong lòng chảo, tiếp cận với quân địch. Chúng tôi đã kéo vào bằng sức người mà mỗi 1 khẩu pháo nặng 2,4 tấn mà chúng tôi phải bố trí 80 - 100 người kéo. Chúng tôi chủ yếu là kéo ban đêm trong rừng. Lúc khó khăn thì chúng tôi lại nảy ra các sáng kiến, như: qua bãi lầy thì phải vác đá kè, chặt cây rừng rải ra để làm thảm kéo pháo vượt qua, rồi thì nảy ra sáng kiến đêm tối như thế ko được soi đèn, lại phải cử 2 người khoác mảnh vải trắng đi phía trước để anh em nhìn, làm cái tiêu để anh em kéo theo sau. Có những đêm chỉ kéo được khoảng độ 1 km nên chúng tôi phải rất vất vả".
Khi gần sát Tết âm lịch Giáp Ngọ, lúc bấy giờ khi trung đoàn 367 kéo pháo đến cách đồi Độc Lập 400m và chiếm lĩnh được trận địa, quân đội Pháp ở trong đồi Độc lập vẫn không hề biết. "Điều kỳ diệu" này được làm nên từ những hy sinh gian khổ, ý chí chiến dấu ngoan cường mà các chiến sỹ bộ đội Việt Nam đã trải qua. Ông Phạm Đức Cư kể: "Trong suốt chiến dịch 56 ngày đêm, chúng tôi thường xuyên ở trên trận địa. Ngay bản thân tôi đã từng bị bom nổ vùi lấp đi ko còn thấy gì nhưng sau trận anh em lại đi tìm kiếm, đào bới lên, lại sống lại, lại chiến đấu và còn một vài lần bị thương nữa. Khi ấy quần áo chúng tôi đầy máu me, bùn đất, không lúc nào khô, sạch. Cả tháng trời bùn khô rồi lại rụng, rồi lại lấm bùn vì chúng tôi luôn luôn phải cơ động ở ngoài trận địa mà thỉnh thoảng lại có trận mưa. Thậm chí cấp dưỡng mang cơm từ trong rừng ra, gánh cơm khi đưa ra trận địa gặp máy bay thả bom xuống, anh cấp dưỡng gánh 2 sọt cơm trên vai phải dấn cả người, cả gánh cơm xuống hào đầy bùn ấy, ra trận địa thì chúng tôi lại gọt đi để ăn".
Trên chiến trường ngày đó, nhiệm vụ chính của những người lính pháo cao xạ là yểm hộ cho bộ binh chiến đấu, đồng thời tiêu hao sinh lực của Pháp. Bên cạnh đó, các chiến sỹ trung đoàn 367 còn phấn dấu thực hiện lời hứa với Đại tướng Võ Nguyên Giáp "mỗi đại đội bắn rơi một chiếc máy bay". Ông Phạm Đức Cư cho biết để có thể đánh phá được không lực hùng hậu của đối phương, các pháo thủ phải có sự phối kết hợp nhuần nhuyễn: "Trong 7 pháo thủ ở 1 khẩu pháo này là phải như 1. Mỗi 1 con người có 1 chức năng nhiệm vụ riêng nhưng đều phải thống nhất làm sao bắt được mục tiêu, làm sao đúng tầm, đúng hướng, đúng cự li, đúng tốc độ. Lúc bấy giờ nghe hiệu lệnh để nổ súng thì mới đúng mục tiêu được. Có những lúc 7 anh pháo thủ này phải làm thế nào để kỹ thuật của mình phải đảm bảo. Ví dụ như anh lấy đường bay, anh lấy tốc độ cự li, anh nạp đạn, anh chuyển đạn, anh ngắm bắn, anh chỉnh tầm, anh chỉnh hướng làm sao cho nó thật hài hòa, thống nhất. Những đặc điểm của những con người lính cao xạ là rất là đặc thù".
Khó khăn, vất vả, hy sinh nhưng trung đoàn pháo cao xạ 367 của ông Phạm Đức Cư đã phấn đấu bắn rơi được 52 máy bay và bắn hỏng một số lượng lớn máy bay địch, góp phần không nhỏ trong thành công của chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiến thắng tại Điện Biên Phủ năm 1954 là chiến thắng phải đánh đổi bằng hy sinh mất mát của biết bao người lính, trong đó có những người lính pháo cao xạ trung đoàn 367.
Chiến tranh đã lùi xa, những người lính pháo cao xạ tham gia trận Điện Biên Phủ năm xưa người còn, người mất. Giờ chỉ còn lại hơn 100 cựu chiến binh trong đó có Phạm Đức Cư. Ông Phạm Đức Cư cảm thấy mình may mắn hơn những đồng đội đã ngã xuống khi được trở về sau bao năm chinh chiến ở khắp các mặt trận từ Bắc chí Nam, là ông đã . Ông Cư tâm sự: "Tôi cũng có làm thơ, viết báo làm đủ cách để quên đi những gì gian nan vất vả, gian truân của đời lính để cho con người thoải mái hơn. Chúng tôi cũng còn may mắn được sống sót đến ngày hôm nay để gặp gỡ để nói lại được với thế hệ sau này, mà cũng chỉ còn có lần này thôi, còn không có lần kỷ niệm 70 năm nữa đâu vì lúc đó chúng tôi cũng chẳng còn"...
Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi với ông Phạm Đắc Cư như lặng đi khi người cựu binh nhớ tới những người đồng đội đã cùng ông "sống trên mâm pháo, chết trên mâm pháo" của 60 năm về trước. Là người trực tiếp chiến đấu trong chiến dịch, câu chuyện thời lính của cựu chiến binh Phạm Đức Cư sống động như một đoạn phim về đời lính pháo cao xạ trung đoàn 367./.
Cuộc tàn sát máy bay Pháp trên bầu trời Điện Biên Phủ
Thứ hai, 05/05/2014, 07:00 (GMT+7)
“Phòng không cao xạ của ta/ Lần đầu xuất trận như là thần tiên/ Đoàn Ba sáu bảy không quên/ Vẫn còn mãi mãi trong thiên sử vàng…”. Những câu thơ giản dị và khí thế vẫn luôn được ông Phạm Đức Cư (xã Thanh Xương, TP. Điện Biên Phủ), cựu chiến binh Điện Biên Phủ cất lên mỗi khi gặp lại đồng đội cũ, hay gặp gỡ những nhà báo, nhà văn. Ký ức hào hùng của một thời “Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo” mà ông kể lại đã mang đến cho tôi nhiều cảm xúc cùng sự tri ân, tự hào về tinh thần chiến đấu kiên cường của những người lính Điện Biên.
Chiến thắng Điện Biên Phủ dù đã qua đi 60 năm, những ký ức về 56 ngày đêm gian khổ “mưa dầm cơm vắt”, nhưng oai hùng, dường như vẫn còn hiện hữu trước mắt người lính già này. Ông Phạm Đức Cư là tham mưu tác chiến của Tiểu đoàn 394, Trung đoàn Pháo cao xạ 367, Binh chủng Pháo binh. 60 năm trước, tiểu đoàn 394 và 383 là 2 tiểu đoàn được lệnh kéo pháo vào bên trong lòng chảo Mường Thanh, tiếp cận và khống chế địch trên vùng trời Điện Biên. Đây là lần đầu tiên ra trận của những người lính cao xạ sau khi Binh chủng Pháo binh được thành lập ngày 1/4/1953. Sự xuất hiện của pháo cao xạ tại chiến trường Điện Biên đã thực sự giáng cho quân đội thực dân Pháp một đòn bất ngờ và đóng góp không nhỏ vào thắng lợi của chiến dịch này. Tuy mới lần đầu tiên ra trận, thiếu thốn trăm bề, nhưng bằng ý chí, nghị lực sắt đá, cùng phương pháp tác chiến linh hoạt, những người lính pháo binh đã khiến những “tháp pháo” khổng lồ trên không tan xác, là nỗi khiếp đảm cho không lực Pháp.
Nhớ lại những ngày tháng hào hùng 60 năm trước, ông Cư như sống lại thời trai trẻ
Việc sống còn của quân đội Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ phụ thuộc phần nhiều vào không quân. Khi lực lượng này bị vô hiệu hóa thì con đường dẫn đến diệt vong khó tránh khỏi.Hơn hẳn đối phương một binh chủng (không quân), quân đội Pháp tự tin sẽ nghiền nát được trận địa của quân đội Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ bằng những “pháo đài bay”. Nhưng từ lúc bắt đầu chiến dịch, thay vì nghiền nát quân đội non trẻ Việt Nam, thì công việc chính của không quân Pháp lại là đếm xác máy bay bị bắn rơi hàng ngày.
Trong cuốn “Điện Biên Phủ: Một góc địa ngục”, tác giả Bernard B Fall đã gọi cuộc chiến trên bầu trời Điện Biên là “cuộc tàn sát máy bay”. Minh chứng rõ nhất là con số 62 máy bay bị bắn rơi, 186 máy bay bị trúng đạn dẫn đến hư hỏng nặng. Nhớ lại những ngày tháng hào hùng 60 năm trước, ông Phạm Đức Cư hào hứng như sống dậy một thời trai trẻ. Ông cho biết, lúc đó đơn vị mới thành lập, pháo mới tiếp nhận, bao gồm 2 tiểu đoàn trang bị 24 khẩu pháo cao xạ M1939 – 37mm do Liên Xô sản xuất. Ông Cư cùng đồng đội được cử sang Trung Quốc học chiến thuật, kỹ thuật sử dụng pháo cao xạ. Tháng 11/1953, Đảng ủy Trung đoàn quyết định đưa hai tiểu đoàn huấn luyện xuất sắc về nước tham gia chiến dịch Trần Đình (mật danh của chiến dịch Điện Biên Phủ). Tháng 12/1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị cho Trung đoàn pháo cao xạ 367 tham gia chiến dịch.
Trước đó, quân Pháp đã nhảy dù, xây dựng lòng chảo Điện Biên Phủ thành 3 cụm cứ điểm chính là phân khu bắc gồm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo; phân khu trung tâm ở cánh đồng Mường Thanh và phân khu Hồng Cúm. Chúng huênh hoang rải truyền đơn thách đấu. Các chiến sỹ pháo cao xạ được lệnh hành quân lên Tây Bắc. Phải rất vất vả và gian khổ quân ta mới kéo được 24 khẩu pháo, mỗi khẩu nặng 2,4 tấn lên Điện Biên. Để kéo được một khẩu pháo, cần tới 80-100 người. Việc kéo pháo đều phải bằng sức người, vì không có đường kéo bằng xe. Đường rất hẹp, dốc, có những nơi độ dốc tới 45-50 độ, nên cực kỳ gian khổ.
Kéo pháo vào chiến trường Điện Biên Phủ (ảnh tư liệu)
Từ điểm tập kết Nà Nhạn (cách tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 13km), 2 tiểu đoàn được lệnh kéo vào lòng chảo Mường Thanh xây dựng trận địa. Khác với pháo đánh mục tiêu mặt đất (xây dựng trận địa trên đồi cao ở Điên Biên), pháo cao xạ phải lập trận địa ở dưới thấp và bằng phẳng (vì bắn mục tiêu trên không). Có hai nhiệm vụ chính của các đơn vị pháo cao xạ trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ cho bộ binh ta bao vây, tiêu diệt các cứ điểm, thì pháo cao xạ được lệnh để tiêu diệt càng nhiều máy bay địch càng tốt.
Lưới lửa phòng không trong chiến dịch Điện Biên Phủ (ảnh tư liệu)
Hai tiểu đoàn kéo pháo vào từ Nà Nhạn, sau đó phát triển cắt ngang Hồng Cúm, vòng vây khép kín dần. Những khẩu pháo cao xạ được bố trí như hình cánh cung, 2 tiểu đoàn ở phía đông, tây gom lấy lòng chảo Điện Biên, ôm lấy chiến trường, dựng thành lưới lửa phòng không. Ông Cư cũng như các đồng đội phải liên tục cơ động, xây dựng trận địa. Hôm nay ở trận địa này mai ở trận địa khác. Trong cuốn “Điện Biên Phủ chuyện kể với bạn bè”, nhà nghiên cứu quân sự, Đại tá Trần Trọng Trung viết: “Dựa theo sách vở đã học, anh em báo cáo với cấp trên: trong 8 điều kiện cần có để chọn trận địa cao xạ thì ở Điện Biên này thiếu mất 7, chỉ còn một điều kiện là “không gần đường dây điện cao thế!”. 60 năm trước, những ụ pháo cao xạ, trận địa pháo đơn sơ đã ra đời trong những điều kiện hết sức ngặt nghèo như thế. Tuy nhiên, cũng kể từ đấy, bá chủ mới trên bầu trời Điện Biên Phủ đã xuất hiện, là nỗi kinh hoàng của máy bay Pháp, đồng thời bóp nghẹt yết hầu của “con nhím Điện Biên Phủ”.
(Theo VTC)
Cựu chiến binh Phạm Đức Cư hiến tặng kỷ vật chiến trường cho Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Điện Biên TV - Hưởng ứng cuộc vận động “Hiến tặng kỷ vật liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ”, cựu chiến binh Phạm Đức Cư, hội viên Hội Cựu chiến binh xã Thanh Xương, huyện Điện Biên vừa trao tặng cho Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 5 hiện vật, kỷ vật liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa.
Cựu chiến binh Phạm Đức Cư (trái) trao tặng kỷ vật cho lãnh đạo Bảng tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Những kỷ vật, hiện vật được ông Phạm Đức Cư trao tặng cho Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, gồm: Một túi da đựng tài liệu, một sơ đồ bố trí đội hình chiến đấu của pháo cao xạ trong chiến dịch Điện Biên Phủ, 2 tấm vải dù trắng, 1 tấm vải dù hoa và 1 huy hiệu do Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng. Các kỷ vật, hiện vật này được ông Cư lưu giữ và bảo quản suốt 59 năm qua.
Ông cũng là người cựu chiến binh thứ 3 trên địa bàn tỉnh trao tặng kỷ vật, hiện vật cho Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ sau khi UBND tỉnh phát động hiến tặng tư liệu, hiện vật, kỷ vật liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ.
Văn Phú – Anh Tuấn
Người lính Điện Biên và nỗi day dứt 60 năm vì một lời nói dối
Vết thương vẫn còn trên cánh tay cựu chiến binh Phạm Đức Cư, minh chứng tinh thần bất khuất, anh dũng của lính cao xạ.
Với ý chí “chết trên mâm pháo, sống trên mâm pháo” của các pháo thủ cao xạ, góp phần quan trọng làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ.
60 năm trôi qua, chiến binh Phạm Đức Cư, 85 tuổi ở Đội C4, xã Thanh Xương, tỉnh Điện Biên là một trong những người còn lại, minh chứng tinh thần thép của lính pháo cao xạ, anh dũng, gan dạ.
Con người “sắt”
Đầu năm 1954, Bộ Tư lệnh đã gửi cán bộ, chiến sĩ sang Trung Quốc để huấn luyện kỹ thuật về pháo cao xạ. Tháng 4/1953, Trung đoàn pháo cao xạ đầu tiên 367 của Quân đội Nhân dân Việt Nam thành lập ở Thái Nguyên. Một tháng sau, hơn 2.000 cán bộ chiến sĩ ưu tú, do đồng chí Ngô Từ Vân chỉ huy, hành quân sang Tân Dương, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) để học chiến thuật, kỹ thuật sử dụng pháo cao xạ.
Cựu chiến binh Phạm Đức Cư kể: “Bấy giờ để tuyển chọn chiến sĩ đi học ở Trung Quốc rất kỹ lưỡng. Tiêu chuẩn phải là chiến sĩ đã kinh qua chiến đấu, thể hiện tinh thần dũng cảm, nhanh nhẹn, không vướng bận vợ con, có sức khỏe tốt, trung thành với cách mạng. Có Trung đoàn cử 50 chiến sĩ, đến Thái Nguyên kiểm tra, loại ra chỉ còn 10 người. Các chiến sĩ hành quân, đi bộ đường rừng hơn 3 tuần sang nước bạn và phải tuyệt đối giữ bí mật”.
Ngày 24/11/1953, Đảng ủy Trung Đoàn quyết định đưa 2 Tiểu đoàn huấn luyện xuất sắc 383 và 394 về nước tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Tháng 12/1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị cho Trung đoàn pháo cao xạ 367 tham gia chiến dịch. Theo cựu chiến binh Phạm Đức Cư kể, lúc bấy giờ cán bộ, chiến sĩ các Tiểu đoàn chỉ nhận lệnh đi chiến dịch “Trần Đình” – Mật danh của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trước khi đi chiến dịch “Trần Đình”, tất cả cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn viết “Quyết tâm thư”. Chiến sĩ Phạm Đức Cư viết: “Tôi Phạm Đức Cư, cán bộ tham mưu, được phân công trách nhiệm đi cùng Tiểu đoàn pháo. Tôi xin hứa cố gắng hết mình, làm tốt nhiệm vụ, chiến đấu đến cùng”. Các đoàn quân nối đuôi nhau, hùng dũng Tây tiến.
Cuối tháng 1/1954, Trung đoàn 367 có mặt tại Điện Biên, Bộ Tư lệnh quyết định thay đổi chiến thuật “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, thắng chắc”, buộc các chiến sĩ vất vả kéo pháo vào, kéo pháo ra và lại kéo vào. Trên đường kéo pháo, mồ hôi trộn máu, chiến sĩ hy sinh, các pháo thủ không nao núng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo. Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng mở màn chiến dịch đánh Him Lam. Cán bộ, chiến sĩ pháo cao xạ nêu cao khẩu hiệu “còn 1 người, một pháo, 1 viên đạn cũng quyết chiến đấu đến cùng”, quân ta đã làm chủ được bầu trời, cắt viện trợ bằng đường không và sự oanh tạc của máy bay địch.
Cựu chiến binh Phạm Đức Cư không thể quên được cuộc chiến đấu ác liệt, ông kể: “Ngày 16 đến ngày 17/3, vị trí đồi Độc lập, quân Pháp tập trung lực lượng, đánh trả. Đại đội 827 thuộc Tiểu đoàn 394 chưa kịp cơ động, đồng chí Dương Bá Sanh – Đại đội trưởng quyết định dồn sức quyết chiến. Hai quả bom địch lồng vào trận địa pháo Đại đội 827, nổ tung, Đại đội trưởng Dương Bá Sanh, Đại đội phó Bùi Văn Phú và một số pháo thủ hy sinh. Hai khẩu pháo của Đại đội bị hỏng, còn lại hai khẩu pháo, tham mưu Phạm Đức Cư, Chính trị viên phó Tiểu đoàn Đăng Trình liền nhảy xuống cùng với pháo thủ tiếp tục chiến đấu. Pháo thủ ngồi lên mâm pháo xác định “đạn bom tránh mình, mình không tránh được đạn bom”.
Lời nói dối
Cuối tháng 4/1954, trong một trận đánh, pháo thủ tên Vân (quê Vĩnh Phúc) bị mảnh đạn pháo địch bắn vào ngực bất tỉnh. Phạm Đức Cư bị đạn pháo cắt cả bắp tay trái, máu chảy ướt cả người. Nghe đồng đội hô cấp cứu, ông cố gượng đứng dậy chạy đến bên Vân, ôm anh vào lòng gọi “Vân ơi! Vân ơi!”. Máu ngực Vân phun ra, mọi người đưa anh vào chỗ an toàn băng bó và chuyển ra bệnh viện dã chiến. Vân bỗng tỉnh lại, cầm lấy tay Cư nói: “Em xin lỗi anh, anh giúp em lấy tấm ảnh trong ba lô, sau ảnh có ghi địa chỉ. Anh còn sống, mang về quê nói với mẹ, em không còn nữa”. Mở ba lô xem, ông thấy tấm hình đen trắng, Vân chụp chung với cô gái, đằng sau ghi địa chỉ. Chôn cất Vân xong, đơn vị tiếp tục chiến đấu.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, đơn vị hành quân về Hà Nội. Rảnh rỗi, Phạm Đức Cư mang thư, hình cá nhân ra xem lại và thấy tấm hình của đồng đội để lại. Hơn 1 năm rồi, ông chưa thực hiện được lời hứa, trong lòng day dứt. Cuối năm 1955, đơn vị tạo điều kiện cho nghỉ về thăm gia đình, ông quyết định đi Vĩnh Phúc để trao bức ảnh cho mẹ Vân. Tàu dừng ở ga Vĩnh Yên, theo địa chỉ ghi trên bức ảnh, 11 giờ trưa ông tìm đến nhà. Thấy anh bộ đội, bà cụ khoảng 60 tuổi mừng rỡ chạy ra đón, mời vào nhà.
Một lát sau, cô gái chạy vội vàng đến lễ phép chào mẹ, chào anh. Bà cụ giới thiệu, cô gái là người yêu của Vân, tên là Ngân. Vân và Ngân yêu nhau từ khi còn làm công tác thanh niên, chờ đến tuổi để cưới thì Vân một mực đòi đi bộ đội. Thấy bà cụ, cô gái đang nóng lòng muốn biết tin của Vân, ông nghĩ “mình có nên nói thật không? Nếu nói Vân hy sinh thì đột ngột với gia đình quá. Bà cụ, Ngân có chịu đựng được khi biết tin này?...”.
Phạm Đức Cư cố nở nụ cười tươi: “Con và anh Vân cùng đơn vị. Anh Vân bận công tác chưa về được. Biết con đi công tác qua nhà, anh Vân gửi con mang tấm hình về gửi mẹ làm tin. Chào mẹ, con phải đi ngay”.
Lời nói dối này luôn làm ông Phạm Đức Cư day dứt cho đến tận bây giờ vì dường như chưa thực hiện trọn vẹn lời hứa với người đồng đội.
theo Infonet
Những cựu binh ở Điện Biên, hồi ức về Đại tướng trong nước mắt
Chưa bao giờ từ “Đại tướng Võ Nguyên Giáp” lại được người dân Điện Biên nhắc đến nhiều như mấy ngày nay. Từ người già đến người trẻ, doanh nhân, nông dân hay một anh xe ôm… đều nhắc tới vị Đại tướng của họ trong nghẹn ngào xúc động.
Chúng tôi đã có mặt tại Điện Biên, qua cựu binh Nguyễn Ngọc Khanh (tổ 6, phường Tân Thanh, TP Điện Biên), chúng tôi tìm đến lão thành cách mạng Lương Trọng Hà, năm nay đã 90 tuổi với 65 tuổi đảng.
Cụ Hà bên hầm Đờ Cát.
Cụ Hà là người được tham gia lớp tập huấn quân sự trực tiếp do Đại tướng Võ Nguyên Giáp huấn luyện. Nhưng sau, Đại tướng đã khuyên cụ về hậu phương tham gia đội ngũ vận động những người Việt tham gia cho quân đội Pháp trở lại phục vụ cho quân đội ta. Theo lời khuyên ấy, cụ Hà đã vận động được 7 chiến binh Pháp theo con đường chính nghĩa.
Khi vào thăm, cụ Hà đang ở mảnh vườn nhỏ sau nhà. Thấy khách cụ dừng việc, pha nước tiếp đón. Mặc dù tuổi đã cao, tai đã nghễnh ngãng, sức khỏe yếu, nhưng khi nghe tôi thông báo hung tin, Đại tướng đã từ trần, cụ lặng người. Thể theo nguyện vọng của tôi, cụ Hà lập tức lên đường đưa tôi đến giới thiệu những chiến tích và những ký ức về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chúng tôi đến A1, C1, C2, D1, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, đồi Ðộc Lập, cầu và sân bay Mường Thanh, hầm chỉ huy của tướng Ðờ Cát.
Cụ Hà chỉ vào hầm Đờ Cát nói: “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu là đây. Mọi sức mạnh đều bị Đại tướng hóa giải”.
Chúng tôi tiếp tìm về nhà cựu binh Điện Biên Nguyễn Hữu Chấp, nguyên là Khẩu đội trưởng cối 82mm. Ông tham gia bộ đội từ năm 1949, tham gia tất các trận đánh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Ông bị thương ở tay trái với 8 mảnh đạn pháo găm vào người.
Ông ngồi trầm ngâm trong một căn nhà nhỏ trên đường Him Lam (TP Điện Biên). Ông cho biết, khi nghe tin bác Giáp mất, ông mất ngủ cho đến giờ. Những hình ảnh của Đại tướng cứ hiện về. Những lời căn dặn, những mệnh lệnh cứ thoang thoảng bên tai.
Ông Chấp chia sẻ: Tôi là người tham gia từ trận mở màn đến kết thúc chiến dịch, với tôi Tướng Giáp luôn nghiêm khắc, quyết đoán nhưng mãi gần gũi, bình dị, nhân ái. Vì vậy hình ảnh Đại tướng luôn gắn bó với đời sống của tôi đó là gần gũi giản dị. Khi vào nhận thì nhận lệnh cấp trên cấp dưới đó là quy định trong quân đội, nhưng khi ra đời thì Đại tướng lại chan hòa không có cấp trên cấp dưới, đó là điều để đời cho tôi học tập.
Sau khi đi thăm các chiến tích trên đồi A1, D1, E, cánh đồng Mường Thanh, đường Him Lam…, chúng tôi được người dân chỉ dẫn đến nhà cựu chiến binh Thượng úy Phạm Đức Cư (84 tuổi) tại bản Ten C4 xã Thanh Lương TP Điện Biên. Bác Cư theo cách mạng từ năm 1947, đến năm 1949, vào quân chủ lực.
Bác Phạm Đức Cư kể lại những kỷ niệm với Đại tướng.
Bác Cư được chọn đi học nước ngoài về các khí tài hiện đại. Trước khi đi, bác Cư được Đại tướng Võ Nguyên Giáp căn dặn rằng: Nhiệm vụ của đảng, của quân đội giao cho đồng chí một sứ mệnh lịch sử quan trọng. Đồng chí đi làm nhiệm vụ mới này cố gắng học tập cho tốt, sau trở về đất nước chiến đấu.
Sau năm 1953, bác Cư nhận được lệnh kéo pháo về và hành quân lên Tây Bắc. Khi kháng chiến vào giai đoạn cam go, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nói, làm sao mỗi đại đội pháo phải bắn rơi ít nhất 1 máy bay. Khi kết thúc chiến dịch tiểu đoàn pháo đã hạ được 52 máy bay của địch, vượt chỉ tiêu mà Đại tướng đã giao trước đó.
Vừa bước vào cửa, tôi đã thấy mắt bác đỏ hoe, nhòa lệ. Những dòng nước mắt tuôn dài trên gò má người lính già Phạm Đức Cư. Trên tay là tập giấy mà bác Cư nói mình đã thức trắng 2 đêm để hồi ức về những kỷ niệm vui buồn khi còn bên Đại tướng đáng kính trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Thấy tôi cũng rưng rưng, bác Cư liền lấy lại bản lĩnh cựu binh năm xưa, trấn tĩnh vừa cho tôi vừa cho mình bằng câu “sinh hữu hạn, tử vô kỳ”. Bác Cư nói: Người dân không chỉ phục sự tài giỏi mà phục vì Đại tướng giản dị gần gũi, vững vàng kiên trung. Đại tướng luôn luôn sâu sát động viên binh sỹ với những lời nói ấm áp chân thành và thương yêu.
Lối sống giản dị, phong cách chỉ huy gần gũi của Đại tướng đã để lại trong tôi hình ảnh của người chỉ huy cao nhất, tin tưởng nhất. Cả cuộc đời Đại tướng đã cống hiến cho đất nước cho dân tộc Việt Nam, nói sao cho hết tình cảm. Nói tới đây, nước mắt bác tuôn trào trên trang bản thảo…
Tiếp đó tôi đến nhà cựu binh Nguyễn Thị Hương Liên (SN 1950, phường Tân Thanh, TP Điện Biên), mặc dù trong chiến dịch Điện Biên Phủ còn nhỏ, nhưng hình ảnh Đại tướng trở thành thần tượng của cô từ thuở nhỏ. Gặp cô tại phường Tân Thanh, khi cô đang nức nở nước mắt ngắn nước mắt dài mở những xấp tài liệu, những bức ảnh, chuẩn bị viết về chân dung vị Đại tướng đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời cô. Rồi cô đưa cho tôi tấm ảnh chụp chung với Đại tướng vào năm 2004.
Cô kể: Đại tướng là thần tượng của đời tôi. Tôi mơ một ngày được gặp người. Thế nên tôi tình nguyện vào lực lượng TNXP. Rồi ước mơ đó thành hiện thực. Năm 2004, tôi đã được bắt tay và chụp ảnh chung với vị Đại tướng đáng kính của mình.
Và tý nữa thôi, cô bay về Hà Nội để đến dâng hương viếng vị danh tướng thần tượng suốt cuộc đời mình.
Báo giấy
Giữ tinh thần điện biên, lập nên chiến thắng mới TTO - Tuổi trẻ hôm nay vẫn đau đáu một lòng với tình yêu đất nước, luôn sẵn sàng lập nên kỳ tích mới, nối tiếp chiến công của tinh thần Điện Biên 60 năm trước.
Cựu chiến binh chiến trường Điện Biên Phủ Phạm Đức Cư truyền lửa cho thế hệ trẻ để giữ mãi tinh thần Điện Biên Phủ năm xưa - Ảnh: Việt Dũng
Đó là tinh thần được các đại biểu nhiều thế hệ nhắc lại nhiều lần trong buổi tọa đàm “Tinh thần Điện Biên với tuổi trẻ hôm nay” trong chương trình “Tháng 3 biên giới” 2014 vừa diễn ra chiều nay 14-3.
Nếu hai cựu chiến binh Phạm Bá Miều và Phạm Đức Cư của chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa mang đến câu chuyện thần tốc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của 56 ngày đêm chiến dịch Điện Biên Phủ, thì những người trẻ hôm nay lại mang nỗi trăn trở khi đất nước còn nhiều khó khăn.
Là một trong những pháo thủ đầu tiên được đưa đi đào tạo tại Trung Quốc, ông Phạm Đức Cư bảo chính chiến trường Điện Biên Phủ là nơi đầu tiên ông cùng đồng đội thực hành những bài học về pháo cao xạ. 56 ngày đêm đối đầu cùng giặc, có những ngày đồng đội thay nhau trên mâm pháo trực chiến 24/24 giờ, hi sinh cũng không ít nhưng mọi người đều đồng lòng “còn một khẩu pháo, một người cũng phải chiến đấu tới cùng”.
Và giữa thế giằng co không cân sức về vũ khí, tài lực cho chiến tranh, dù vất vả nhưng ông và đồng đội vẫn phải chấp hành nghiêm mệnh lệnh kéo pháo trở ra sau bao vất vả dùng sức người kéo khẩu pháo 2,4 tấn vào trận địa vì thay chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh bằng đánh chắc thắng chắc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
“Đồng đội đã khóc rất nhiều, không thể nuốt nổi cơm khi chôn cất Tô Vĩnh Diện khi anh hi sinh lấy thân mình chèn giữ thăng bằng cho khẩu pháo mà không có nổi một nén hương để thắp” - ông Cư bồi hồi.
Người lính hải quân Nguyễn Thanh Tài phát biểu tại tọa đàm - Ảnh: Việt Dũng
Thanh niên sản xuất giỏi dân tộc Mông Vừ A Lử kể câu chuyện làm giàu và giúp bạn bè cùng làm giàu chính đáng tại tọa đàm - Ảnh: Việt Dũng
Nối mạch tinh thần Điện Biên 60 năm trước, cô giáo dạy lịch sử Trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Điện Biên Nguyễn Thị Thanh Huyền cho rằng mỗi bạn trẻ phải hiểu lịch sử để giữ được bản sắc dân tộc mình trong thế giới hòa nhập để không bị hòa tan hôm nay.
Đó còn là câu chuyện của người lính đã công tác năm năm tại đảo Trường Sa Lớn Nguyễn Thanh Tài, ngoài việc cùng đồng đội tìm cách hiệu quả nhất nâng cao chất lượng huấn luyện còn nghĩ cách giúp ngư dân để tạo ra thế trận lòng dân trên biển.
Kể câu chuyện về bất ngờ khi ngày đầu tiên đặt chân đến một trong những trường đại học lớn của Pháp, câu hỏi đầu tiên vị giáo sư hỏi người học trò Việt Nam là “Tướng Giáp có khỏe không?”. Chính lòng yêu mến Việt Nam của vị giáo sư ấy mà TS Lê Nguyễn Minh Quang (Công ty Bachy Soletanche) đã được đặc cách để theo học dù khi anh đến, cuộc thi đã hoàn thành.
Nhưng điều làm anh trăn trở, cũng là quyết tâm, là mọi người phải cùng Việt Nam giàu lên, trở thành cường quốc kinh tế để không cứ nhắc đến hai chữ Việt Nam, người ta chỉ nhớ đến chiến tranh và thắng các đế quốc.
Mỗi câu chuyện là một góc nhìn về vai trò, trách nhiệm của người trẻ hôm nay để viết tiếp bản hùng ca chiến thắng Điện Biên năm nào.
Với bí thư Đoàn Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG TP.HCM) Ông Thị Ngọc Linh là niềm tự hào về quá khứ phải đi liền với mục tiêu cuộc đời và phải phấn đấu để đạt đến. Còn với người thanh niên sản xuất giỏi dân tộc Mông Vừ A Lử đấy lại là tự làm giàu cho mình và giúp bạn bè mình cùng vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng.
PGS.TS Hà Minh Hồng - trưởng khoa lịch sử (ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, ĐHQG TP.HCM) - cho rằng các thế hệ đi trước hãy tin và phải tin vào lớp trẻ hôm nay vì dù ở thời điểm nào, khi tuổi trẻ được tin, được nói và được làm thì sẽ luôn tạo ra những kỳ tích mới, đầy sáng tạo và giàu lòng yêu nước.
Chia sẻ tại tọa đàm, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ Phạm Đức Hải nói hai ngày qua đi nhiều nơi ở Điện Biên, thấy đất nước mình nhiều nơi rất đẹp nhưng vẫn còn nghèo lắm. Vì thế, trách nhiệm đặt trên vai thế hệ trẻ hôm nay còn rất nặng, phải làm sao để tạo ra những chiến thắng Điện Biên Phủ của thời đại hôm nay.
“Mong các bạn hãy luôn giữ trong mình ngọn lửa nhiệt huyết của tuổi trẻ để sẵn sàng vượt qua mọi chông gai, xây dựng đất nước và kéo lại gần hơn khoảng cách giàu nghèo” - ông Hải đúc kết tọa đàm.
Chương trình “Ngày hội Tháng 3 biên giới” 2014 được tổ chức từ ngày 13 đến 15-3-2014 tại Điện Biên. Hoạt động hướng tới kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 83 năm thành lập Đoàn và 55 năm Ngày bộ đội biên phòng, do báo Tuổi Trẻ phối hợp Hội LHTN Việt Nam, Tỉnh đoàn Điện Biên và Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Điện Biên tổ chức.
Ngày hội đã trao 50 suất học bổng Vừ A Dính cho học sinh tại xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo - quê hương anh hùng liệt sĩ Vừ A Dính, tặng máy tính cho Xã đoàn Pú Nhung, tập trắng cho học sinh. Nhà xuất bản Trẻ cũng tặng năm tủ sách (10 triệu đồng/tủ) cho nhiều nơi tại Điện Biên dịp này.
Chương trình còn tổ chức khám bệnh, phát thuốc miễn phí và tặng quà cho người dân tại đồn biên phòng Nà Hỳ (huyện Nậm Pồ). Cũng tại huyện Nậm Pồ, chương trình “Tháng 3 biên giới” đang xây tặng thầy trò điểm Trường Sam Lang 2 (huyện Nậm Pồ) ngôi trường trị giá 1 tỉ đồng.
Người lính kéo pháo và câu chuyện xúc động chụp ảnh Đại tướng
Bức ảnh Đại tướng được ông Phạm Đức Cư chụp với sự phấn khởi khi được gặp người, ông đã bỏ xa nhiều thanh niên để “chộp” lại khoảnh khắc người về thăm đất Thanh Xương.
Câu chuyện những lần gặp Đại tướng của người lính già
Ông Phạm Đức Cư (xã Thanh Xương, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) từng tham gia đại đội kéo pháo cùng người anh hùng Tô Vĩnh Diện. Ông Cư đã không ít lần được gặp Đại tướng để rồi cái chất giọng Quảng Bình ấm áp ấy cho tới bây giờ vẫn như văng vẳng bên tai ông.
Ông Cư kể, ông nhập ngũ năm 1949. Những năm 1951, 1952, đơn vị của ông mới có vài ba lần nhận được thư động viên gửi các đơn vị chiến đấu có nhiều thành tích mà bên dưới có kí tên Võ Nguyên Giáp. Khi đó, ông Cư vẫn chưa được trực tiếp gặp Đại tướng.
Ông Phạm Đức Cư và bức ảnh ông chụp Đại tướng năm 2004.
Mãi tới cuối năm 1952, khi ông Cư học xong kéo pháo và về đi tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, ông mới được gặp Đại tướng, được nói chuyện, bắt tay người thủ trưởng của mình.
Sau khi chiến dịch toàn thắng, hòa bình lập lại, đơn vị kéo pháo của ông Cư về tiếp quản Hà Nội và tập trung tại sân bay Bạch Mai.
“Những ngày đó, Đại tướng cũng có về thăm 2 – 3 lần. Tôi vẫn nhớ như in, vào tháng 10/1955, ở Quảng trường Ba Đình, là ngày duyệt binh thực tế, chiếc xe chở Đại tướng dừng ngay trước mặt tôi, tất cả anh em chúng tôi đồng thanh hô: “Chúc Đại tướng khỏe!”. Và Đại tướng trả lời: “Chúc các đồng chí khỏe!”. Lúc đó, đứng trước Đại tướng, tôi thấy hãnh diện lắm", ông Cư chia sẻ.
Bản thân ông Cư là người con của núi rừng, nên sau đó ông được cử lên Điện Biên làm cán bộ tăng cường của quân đội nhằm giúp đồng bào ở Tây Bắc đặc biệt là Điện Biên phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Qua một vài lần kỉ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Cư cũng được vinh dự gặp lại người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam khi Đại tướng lên thăm lại chiến trường xưa, thăm lại quê hương thứ hai của mình.
Bức ảnh chụp Đại tướng năm 2004 được ông Cư coi như "báu vật" của mình.
“Ngày ấy, khi chúng tôi ngồi tập trung ở hội trường, tôi cũng được bắt tay Đại tướng. Khi ấy, Đại tướng có hỏi chuyện: “Đồng chí trước ở đơn vị nào, tham gia chiến dịch nào?”. Xúc động, tôi trả lời Đại tướng: “Báo cáo Đại tướng, tôi là binh chủng phòng không cao xạ”, thì nhận được lời khen ngợi của Người: “Biết rồi, biết rồi, các đồng chí rất xuất sắc, đã bắn rơi rất nhiều máy bay”.
Rồi Đại tướng còn hỏi tôi tiếp: “Giờ đồng chí đang làm nhiệm vụ gì ở đây?”. Nhận được sự quan tâm đặc biệt ấy, tôi chỉ biết trả lời là mình được đơn vị cử lên đây giúp đồng bào xây dựng lực lượng vũ trang an ninh, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…”, ông Cư kể những lần được gặp Đại tướng mà câu chuyện như không có hồi kết, nét mặt ông hồ hởi.
Bức ảnh chụp Đại tướng trong lần gặp cuối
Và lần cuối cùng tôi được gặp người là vào năm 2004 nhân dịp kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Ngày ấy, sau khi lên thăm khu căn cứ ở Mường Phăng, Đại tướng có tới thăm khu di tích “Hận thù Long Nhai” ở xã Thanh Xương.
Nói tới khu di tích “Hận thù Long Nhai”, giọng ông Cư trầm xuống. Ông kể rằng, ngày 28/4/1954, máy bay và pháo của thực dân Pháp bắn phá vào dân tập trung ở Long Nhai (xã Thanh Xương) vì chúng bảo có Việt Minh, quân đội mình ở đó. 444 người cả đàn ông, đàn bà, từ cụ già cho tới trẻ con đều thiệt mạng. Máu thấm đỏ mảnh đất Long Nhai.
Sau hòa bình lập lại, đài tưởng niệm “Hận thù Long Nhai” với hình ảnh mẹ bồng con đã được xây dựng để các thế hệ sau biết được tội ác dã man của quân thù.
Năm 2004, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau khi thăm khu di tích Mường Phăng, ông đã thăm khu di tích “Hận thù Long Nhai”. Và đây cũng là dịp ông Cư được gặp lại Đại tướng. “Đó cũng là lần gặp cuối cùng…”, ông Cư ngậm ngùi.
Đài tưởng niệm "Hận thù Long Nhai" ở xã Thanh Xương.
Nói rồi, ông Cư lấy tôi xem bức ảnh ông chụp Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc người về đây. “Lúc đó đông người lắm. Tôi thì đã 75 tuổi nhưng vẫn cố cầm máy ảnh chen vào để chụp cho bằng được ảnh Đại tướng. Thậm chí vợ tôi đi cùng không theo kịp, nhiều nhà báo cũng không len được bằng tôi. Tôi chụp được 3 kiểu và ưng nhất là kiểu này, trong đó có cả người bảo vệ, có Bí thư tỉnh ủy tỉnh Điện Biên lúc đó. Còn hai kiểu khác tôi chụp khi Đại tướng ngồi trong xe. Tay trái tôi bắt tay Đại tướng khi người đưa tay qua cánh cửa kính, tay phải thì bấm máy chụp hai vợ chồng người”, chỉ từng người trong bức ảnh, ông Cư kể.
“Có lẽ, Đại tướng cũng đã biết được đây sẽ là lần cuối mình về thăm đất Điện Biên…”, ông Cư đưa ra suy nghĩ của mình khi xem lại bức ảnh tự tay mình chụp, nay đã trở thành vật “bất li thân” của ông.
Bức ảnh chụp Đại tướng được ông Cư đặt trang trọng trên bàn thờ cùng với tượng Bác Hồ và tượng đài chiến thắng Điện Biên.
Chính vì thế, lúc được tin Đại tướng qua đời, ông Cư đã bật khóc thành lời. Ông Cư nói, từng trên 10 trong quân ngũ, chinh chiến hết chiến trường này tới trận địa khác, trận đánh này tới trận đánh khác, năm nay qua năm khác… giọng nói ấm áp mang đậm chất miền Trung, chất Quảng Bình của Đại tướng vẫn luôn trở về trong cuộc sống của ông Cư.
“Người rất giản dị, sống gần gũi, chu đáo với binh sĩ. Tôi rất nhớ và thương tiếc người....”,ông Cư tâm sự.
Giờ đây, bức ảnh ông chụp Đại tướng năm 2004 nằm trang trọng trên bàn thờ cùng với tượng Bác Hồ và tượng đài chiến thắng Điện Biên.
Theo Soha/ Trí thức trẻ /
Ký ức tháng 5 lịch sử của các cựu chiến binh Điện Biên Phủ
Mỗi dịp tháng 5 về, những người lính năm xưa lại càng thêm tự hào vì mình cũng đã được góp công sức trong chiến thắng Điện Biên Phủ.
62 năm đã trôi qua, nhưng với những người lính được tham gia trong chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu hiện sinh sống tại tỉnh Điện Biên, ký ức về những ngày vẻ vang đó vẫn vẹn nguyên.
Năm nay, ông Phạm Bá Miều ở thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đã ở cái tuổi xưa nay hiếm, nhưng ký ức về tinh thần chiến đấu anh dũng của Bộ đội ta những ngày tham gia trong trận đánh Đồi A1 vẫn vẹn nguyên trong ông.
Khi đó, ông Miều được cấp trên điều về Đại đội 76, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316 tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ với chức vụ Tiểu đội trưởng. Vào tháng 4/1954, Tiểu đội ông và Đại đội công binh có nhiệm vụ cùng đào đường hầm ngầm từ chân đồi vào Sở chỉ huy của địch để đặt khối bộc phá. Lúc đó, Điện Biên đang là mùa mưa, bầu trời xám xịt màu chì, mưa tầm tã, nhưng hàng trăm chiến sỹ trong đại đội vẫn thay nhau đào hầm ngầm.
Điện Biên xua (ảnh: Tư liệu)
Ông Miều nhớ lại: Đất ở Đồi A1 rất cứng, dụng cụ chỉ có cuốc chim và xẻng gấp thô sơ nên tiến độ bị chậm. Theo kế hoạch, trong 7 ngày phải hoàn thành nhưng phải mất 12 ngày mới hoàn thành đường hầm ngầm đặt khối bộc phá nặng gần 1 tấn. Trong quá trình đào hầm, nhiều chiến sỹ đã hy sinh vì bị ngạt. Thế nhưng, Bộ đội ta vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu quả cảm. Đêm 6/5/1954, quân ta kích nổ khối bộc phá, tiêu diệt gần một đại đội của địch. Lúc này số quân địch còn lại chống cự rất yếu ớt, thừa thắng Trung đoàn 174 đánh chiếm toàn bộ cứ điểm A1 chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Tiếng nổ của khối bộc phá trên còn là hiệu lệnh tổng công kích đợt cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Cựu chiến binh Phạm Đức Cư ở C4, xã Thanh Xương, huyện Điện Biên chính là một trong những chiến sỹ ưu tú được lựa chọn cử sang Trung Quốc để học chiến thuật, kỹ thuật sử dụng về pháo cao xạ khi Trung đoàn pháo cao xạ 367 đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ở Thái Nguyên.
Ông Cư kể lại: Vào cuối tháng 1/1954, các pháo thủ Trung đoàn 367 đã vượt qua gian khổ, hy sinh đưa được 12 khẩu pháo, mỗi khẩu nặng 2,4 tấn có mặt tại Điện Biên. Trên chặng đường đó đã có chiến sỹ hy sinh, nhưng các pháo thủ không hề nao núng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của cấp trên.
Điển hình tấm gương anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân mình để cứu pháo đã càng thêm củng cố tinh thần quyết chiến đấu đến cùng của các pháo thủ. Trong suốt 54 ngày đêm diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, cán bộ, chiến sĩ pháo cao xạ luôn nêu cao khẩu hiệu “còn một người, một pháo, một viên đạn cũng quyết chiến đấu đến cùng” để yểm hộ cho bộ binh chiến đấu, đồng thời tiêu hao sinh lực không quân của quân đội thực dân, cắt đứt đường tiếp tế của quân địch.
Hình ảnh Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức của những người lính năm xưa (ảnh: Tư liệu)
Ông Phạm Đức Cư không thể quên được những trận đánh ác liệt trong chiến dịch và không khỏi xúc động khi nhớ đến những người đồng đội đã hy sinh. Đó là trong ngày 16 và 17/3, vị trí đồi Độc Lập, quân Pháp tập trung lực lượng đánh trả. Máy bay địch ném hai quả bom vào trận địa pháo Đại đội 827, Đại đội trưởng Dương Bá Sanh, Đại đội phó Bùi Văn Phú và một số pháo thủ hy sinh. Chỉ còn lại hai khẩu pháo, tham mưu Phạm Đức Cư và Chính trị viên phó Tiểu đoàn Đăng Trình liền nhảy xuống cùng với pháo thủ tiếp tục chiến đấu.
Ông Cư nói: “Lúc đó chúng tôi nghe tiếng máy bay rú ở trên đầu. Từ chỗ cánh đồng bản Tâu, một cái vạt mấy cây số liền lên đến đồi Độc Lập vùng trời tối đen lại như mực, không nhìn thấy gì. Không nhìn thấy mục tiêu để bắn nhưng pháo thủ vẫn cứ đứng trên mâm pháo để bắn với tinh thần là không ngừng chiến đấu”.
62 năm đã trôi qua, trên mảnh đất Điện Biên anh hùng, cuộc sống đang đổi thay và những người lính Điện Biên vẫn luôn tự hào khi được góp sức mình làm nên chiến thắng vang dội năm châu, chấn động địa cầu./.
Hồng Việt/VOV
Những chuyện khó tin về hành trình kéo pháo lên Điện Biên Phủ
“Pháo đã kéo từ Trung Quốc về, kéo được vào trận địa thì bí mật là yếu tố ưu tiên hàng đầu. Nếu như không đảm bảo được bí mật, ta có thể bị lộ, ảnh hưởng toàn mặt trận”, cựu binh Phạm Đức Cư nhấn mạnh.
Có lẽ, những ngày kéo pháo gian khổ vẫn là một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất của cựu binh Phạm Đức Cư trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Ông hào hứng cho biết: “Để đảm bảo bí mật, chúng tôi phải kéo pháo xuyên rừng, qua sông, qua suối, kéo cả ngày, cả đêm. Mỗi tiểu đoàn nhận 12 khẩu pháo cao xạ 37 ly và 12 khẩu 12 ly 7. Những khu vực nào rậm rạp, ban ngày địch không phát hiện được, thì anh em tiến hành kéo pháo, còn lại gần như hoàn toàn kéo vào ban đêm khi đã tiến gần đến trận địa”.
Chỉ huy phân chia đơn vị thành 3 tốp, mỗi tốp khoảng 30 người, thay nhau kéo pháo. Lúc kéo, hai tay nắm chặt dây tời, chân dạng ra thật chắc, khi người chỉ huy hô “Hai, ba nào!” thì tất cả gồng sức lên mà kéo và hễ bánh pháo nhích được tí nào thì hai đồng chí pháo thủ liền nhích thanh gỗ chèn lên theo, không cho pháo tụt trở lại.
Những nơi dốc đứng, có chỗ dốc đến 70 độ, mọi người phải buộc tời trên đỉnh dốc, ra sức quay tời quấn vào những gốc cây to, những người ở bên dưới thì cố hết sức đẩy lên từng tí một.
Đi đến đâu, đơn vị phải cho trinh sát đi trước, dò xét mìn, gián điệp biệt kích, xem có bị theo dõi không, lúc đó mới kéo pháo.
Ban đêm không được soi đèn, mọi người nảy ra sáng kiến, đó là cho 2 đồng chí mặc 2 mảnh vải dù trắng, màu dễ nhận biết trong bóng tối, đi trước làm “cột mốc” cho đoàn kéo pháo qua. Cứ như thế, pháo cùng người băng rừng, vượt núi.
Qua bãi lầy, các chiến sĩ phải vác đá lấp đường, chặt cây rừng rải lên, đường hẹp thì kè ra đủ rộng cho pháo qua.
Gian nan mở đường kéo pháo vào Điện Biên Phủ (ảnh tư liệu)
Thời gian đó, mỗi người được phát một đôi giày vải nhưng đường lội lầy, lại dùng giày ghì dây kéo pháo, nên chỉ đi được vài ngày là hỏng, mọi người chân trần kéo pháo suốt chiến dịch. Kéo pháo ban đêm, vướng cây cối, đá nhọn, chân tay người nào cũng rách tướp thịt da.
Mất tổng cộng 9 ngày kéo pháo cho khoảng cách hơn 10 cây số. Không có đường, chỉ bằng sức người, chúng ta đã đưa pháo vào chiếm lĩnh trận địa, ngay sát đồi Độc Lập, chỉ cách có 400m mà địch vẫn không hay biết.
Kéo pháo vào chiến trường Điện Biên Phủ (ảnh tư liệu)
Ngày 25/1/1954, trận địa đã xong, mọi người đều phấn khởi, chuẩn bị tinh thần giết giặc, thì bất ngờ ngay ngày hôm sau nhận được lệnh kéo phao ra tập kết tại địa điểm cũ, thay đổi cách đánh từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc tiến chắc.
Ông Cư kể: “Khó nhọc lắm mới vào đến lòng chảo Mường Thanh nên khi nhận được lệnh, tất cả chúng tôi đều bất ngờ và bàng hoàng”.
Ông Phạm Đăng Ty, chính trị viên tiểu đoàn đã động viên các chiến sĩ rằng chúng ta vẫn quyết tâm tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Nhưng về mặt phương châm tác chiến, chiến lược có thay đổi, đảm bảo cho các cuộc tấn công thắng lợi, ít thương vong.
Hiểu được vấn đề, ông Cư cùng đồng đội lại vui vẻ động viên nhau kéo pháo ra.
Kéo pháo vào đã vô cùng gian khổ nhưng phải kéo ra còn gian khổ gấp bội. Thậm chí có cả những hy sinh mất mát, đó là trường hợp của chiến sĩ Tô Vĩnh Diện.
Lúc kéo ra gần đến địa điểm tập kết Nà Nhạn, quân địch ở cánh đồng Mường Thanh bắn đạn pháo vãi ra như mưa. Địch bắn một cách hú họa, chứ không phải do phát hiện ra các đoàn kéo pháo. Chúng chỉ biết quân ta đang tập kết lên Điện Biên nên bắn hàng ngày, hàng đêm, một lần bắn hàng trăm quả đạn pháo, mang tính cầu may.
Anh hùng liệt sỹ Tô Vĩnh Diện, người đã lấy thân mình chèn pháo 60 năm trước (ảnh tư liệu)
Mặc pháo địch nổ rền, hàng trăm người vẫn níu trên dây cáp dài, ai cũng máu rớm bàn tay, cố giữ để pháo từ từ lăn xuống. Cứ mỗi bậc, lại có hai người hai bên, vừa lái càng vừa sẵn sàng đặt chèn để hãm pháo dừng khi có lệnh nghỉ hay có sự cố.
Nhắc lại thời điểm ấy, ông Cư xúc động: “Tôi cùng một đội kéo pháo với anh Diện. Lúc kéo ra đến một con dốc mà anh em thường gọi là dốc Chuối, thì một quả đạn nổ ngay gần đó, mảnh đạn văng trúng và cắt phăng dây tời, khẩu pháo đang thả dây xuống dốc mất thăng bằng quay ngang”.
Đường rất hẹp, chênh vênh, nếu không có quyết định nhanh, tức thời, thì khẩu pháo sẽ rơi xuống vực thẳm mấy chục mét, tan nát hết. Lúc đó, khẩu pháo còn quý hơn cả bản thân mình. Anh Diện tức khắc cầm vào càng pháo để lái, cố gắng đưa pháo trở lại thăng bằng nhưng không được. Anh Diện quyết định rất nhanh, lao cả thân mình vào bánh xe, khẩu pháo quay ngang sườn đèo, càng pháo đâm vào vách một hốc núi.
Pháo còn, nhưng chiến sĩ Tô Vĩnh Diện đã hy sinh. Trước khi mất, anh còn gắng gượng được một câu hỏi: “Pháo có sao không hả các đồng chí?”.
Ông Cư cùng đồng đội ai cũng rơi nước mắt. Lúc ấy, ông Cư nói: “Chiến dịch chưa mở màn mà chúng ta đã phải hy sinh. Đồng chí hãy an nghỉ, sau này chiến đấu chúng ta quyết phải bắn rơi thật nhiều máy bay để sự hy sinh của đồng chỉ không uổng phí”.
Ông Cư quay sang nhìn các đồng đội cùng kéo pháo, ai cũng có 2 hố mắt trũng sâu, thâm quầng của những ngày thiếu ăn, mất ngủ, chân tay sứt sát máu me, nhưng ánh lên đôi mắt quyết tâm và niềm tin chiến thắng.
Đến gần ngày mở màn chiến dịch, đơn vị ông Cư lại được lệnh kéo pháo vào những địa điểm cũ, theo con đường cũ, chiếm lĩnh trận địa.
Thiết lập trận địa tiêu diệt không lực Pháp (ảnh tư liệu)
Một trong những trận địa pháo cao xạ 60 năm trước của Trung đoàn 367
Ngày 13/3/1954, quân ta tiến công tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam, cũng là lúc, cuộc hủy diệt kinh hoàng đối với máy bay Pháp trên bầu trời Điện Biên Phủ diễn ra.
(Theo VTC news)
Hoan hô cao xạ pháo!
(ANTV) - Ngày 14/3/1954, Trung đoàn 367 đã bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên của địch tại xã Thanh Minh, Thành phố Điện Biên, 60 năm đã trôi qua, nhưng chiến tích về trận địa pháo cao xạ năm nào dường như vẫn còn hiện hữu.
Pháo cao xạ được lệnh ôm sát các trận địa tên lửa để bảo vệ hỏa lực đánh B52
Khi nói về chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, nhiều chuyên gia quân sự quốc tế đã nhận định, sự xuất hiện của trung đoàn pháo cao xạ 367 tại chiến trường Điện Biên đã thực sự giáng cho quân đội thực dân Pháp một đòn bất ngờ và đóng góp không nhỏ vào thắng lợi của chiến dịch này.
Trong trí nhớ của người cựu lính pháo binh Phạm Đức Cư, 85 tuổi, vẫn nhớ như in những ngày này 60 năm trước, khi ông cùng đồng đội của mình – trung đoàn pháo cao xạ 367 kéo pháo về chiến trường Điện Biên, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.
Ông Phạm Đức Cư – Cựu thành viên Trung đoàn Pháo cao xạ 367 kể lại: Năm 1953, chúng tôi được lệnh hành quân lên Tây Bắc, trên đường đi rất vất vả và gian khổ mới kéo được 12 khẩu pháo, mỗi khẩu nặng 2,4 tấn. Trên chiến trường ngày đó, nhiệm vụ chính của những người lính pháo cao xạ là yểm hộ cho bộ binh chiến đấu, đồng thời tiêu hao sinh lực không quân của quân đội thực dân.
Bên cạnh đó, trong những giai đoạn cuối của chiến dịch, khi cuộc chiến đang ở vào thế giằng co, cứ điểm đồi A1 và nhiều cứ điểm khác bị quân đội ta bao vây, quân Pháp bị cô lập, trung đoàn pháo cao xạ đã đóng góp rất lớn trong việc cắt đứt đường tiếp tế của quân địch.
Ông Phạm Đức Cư - Cựu thành viên Trung đoàn Pháo cao xạ 367
Theo lời kể của ông Phạm Đức Cư, cựu thành viên Trung đoàn Pháo cao xạ 367, quân địch không ngờ rằng chúng ta lại có thể kéo pháo vào tới tận lòng chảo và khống chế vùng trời Điện Biên, do đó chúng rất cay cú khi không thể hạn chế pháo cao xạ của quân đội Việt Minh, khiến cho việc thả dù tiếp lương của địch bị hạn chế.
Vai trò bộ đội pháo cao xạ trong chiến dịch Điện Biên Phủ là đã tham gia bảo vệ giao thương vận chuyển, để cắt đứt đường tiếp tế của địch trên quốc lộ một, khống chế và cắt đứt đường hàng không của không cho địch tiếp tế. Bộ đội pháo cao xạ đã góp phần bảo vệ đội hình quân binh chủng hợp thành để tấn công tập đoàn cứ điểm lịch sử Điện Biên Phủ - Thiếu tướng Phan Thanh Giảng – Phó Chủ nhiệm chính trị Quân chủng Phòng không – Không quân nói.
Trên mặt trận Điện Biên Phủ, lưới lửa phòng không ta đã cắt lìa cầu cảng hàng không của Pháp. Cả vùng rừng núi Điện Biên vang dậy tiếng reo hò: "Hoan hô cao xạ pháo! Hoan hô cao xạ pháo!".
Bên cạnh yếu tố bất ngờ, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta đã bắn rơi tất cả 62 máy bay của quân đội thực dân, trong đó, bộ đội pháo cao xạ đã góp phần lớn khi bắn rơi 52 trên tổng số 62 chiếc, đồng thời làm bị thương hơn 100 máy bay của địch.
Kỷ niệm 63 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ: Kéo pháo vào trận địa, chuyện giờ mới kể
63 năm đã trôi qua, nhưng những ngày tháng “sống trên lưng pháo, chết trên lưng pháo” để tiêu diệt máy bay địch, bảo vệ bộ binh tiến vào giải phóng Điện Biên vẫn còn vẹn nguyên trong kí ức của những người lính pháo cao xạ năm xưa.
“Bén duyên” với Tiểu đoàn Pháo cao xạ
Cụ Phạm Đức Cư
Một chiều cuối tháng tư, trong căn nhà nằm khuất nẻo ở ở bản Ten B, đội 4, xã Thanh Xương, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, chúng tôi được cụ Phạm Đức Cư kể cho nghe về thời binh lửa của mình. Mặc dù ở cái tuổi xưa nay hiếm, nhưng cụ Cư vẫn còn minh mẫn, những ký ức về thời binh lửa trong cụ không hề phai nhạt.
Cụ Cư sinh ra và lớn lên tại thị trấn Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Năm 1949, nghe theo lời kêu gọi của Đảng, Bác Hồ, cụ Cư lên đường tòng quân. Những ngày đầu tiên trong quân ngũ, cụ Cư thuộc biên chế của một đại đội bộ binh. Bằng những thành tích xuất sắc đã đạt được, năm 1952, cụ được chọn đi học lớp pháo cao xạ ở Trung Quốc. Với tầm quan trọng của khóa học, trước khi đi, đoàn học viên quyết tâm, hứa với Đảng, Nhà nước và tự hứa với lòng mình sẽ đoàn kết, khắc phục khó khăn, phấn đấu học tập tốt để về nước, phục vụ nước nhà, phục vụ nhân dân.
Suốt cả khóa học, cụ Cư đã làm đúng những gì đã hứa với Đảng, Nhà nước, vượt qua biết bao khó khăn để trở thành chiến sỹ làm công tác tham mưu trong một tiểu đoàn pháo cao xạ. Sau hơn 1 năm miệt mài học tập, rèn luyện ở Trung Quốc, 2 tiểu đoàn pháo cao xạ suất sắc nhất đã về nước sẵn sàng nhận lệnh lên đường. Và cụ Phạm Đức Cư là một trong số những thành viên suất sắc đó. Về nước, cụ Cư thuộc biên chế của Tiểu đoàn 394, Tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly, đất đối không.
Ngày 24/12/1953, hai tiểu đoàn pháo cao xạ nhận được lệnh kéo pháo lên Tây Bắc, phục vụ chiến dịch “Trần Đình” (mật danh của chiến dịch Điện Biên Phủ lúc bấy giờ). Nhâm nhi chén trà nóng, cụ Cư nói: “2 tiểu đoàn pháo cao xạ có 2 nhiệm vụ chính. Thứ nhất là tiếp cận, bảo vệ cho các sư đoàn bộ binh để tấn công vào các cứ điểm của địch. Nhiệm vụ thứ hai và cũng là nhiệm vụ quan trọng nhất đó là làm sao bắn hạ được nhiều máy bay của địch (máy bay chiến đấu và máy bay tiếp tế cho địch)”.
Xuất phát từ Tuyên Quang và phải mất 17 ngày đêm, tiểu đoàn cụ Cư mới lên đến xã Nà Nhạn, cách cứ điểm của địch 13 – 15km. Tại đây, 2 tiểu đoàn pháo cao xạ được lệnh tháo rời xe pháo và kéo pháo bằng sức người vào trong lòng chảo Điện Biên. Lúc bấy giờ, để vào được lòng chảo Điện Biên chỉ có con đường độc đạo là Quốc lộ 6 nhưng đã bị địch chiếm đóng ở hai vị trí: Him Lam và đồi Độc Lập. Để kéo hết mấy chục khẩu pháo cao xạ lọt qua vòng vây địch là một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Lúc đó, tiểu đoàn 394 của cụ Cư gồm 4 đại đội, được trang bị 16 khẩu pháo cao xạ, mỗi khẩu pháo nặng 2,4 tấn.
Gian nan đường kéo pháo
Xác định không thể kéo pháo vào bằng con đường “chính ngạch” nên chỉ huy tiểu đoàn đã quyết định kéo pháo băng qua rừng để tiến vào lòng chảo Điện Biên. Từ xã Nà Nhạn, các tiểu đoàn phải kéo pháo đi đường vòng qua nhiều đồi núi quanh co, vượt qua nhiều suối sâu, dốc cao để vào bản Tâu (xã Thanh Nưa), cách đồi độc lập 400m, nơi Sở Chỉ huy chiến dịch chọn để thiết lập trận địa pháo cao xạ.
Điện Biên lúc đấy vào mùa mưa, mưa tầm tã suốt mấy ngày liền. Một con đường đất nhỏ được lực lượng công binh gạt ra từ chân núi được chọn làm đường kéo pháo. Bùn lầy nhão nhoẹt, pháo thì nặng nề, cồng kềnh, nhiều lúc pháo mắc lầy, ko qua được, càng kéo nó càng chìm sâu. Cứ mỗi khẩu pháo mắc kẹt trong bùn lầy là cả tiểu đoàn phải dừng lại, cùng nhau đi vác đá kè bánh pháo, chặt cây rừng làm đòn bẩy để kéo. Mất 9 ngày đêm, tiểu đoàn cụ Cư mới kéo được khẩu pháo vào tới khu vực lòng chảo Điện Biên.
Cụ Cư kể: “Khi gần vào đến bản Tâu, lúc đấy đã gần địch lắm rồi. Đồi Độc Lập lúc bấy giờ còn yên tĩnh lắm. Để đảm bảo bí mật, anh em phải kéo vào ban đêm và không được phép soi đèn. Để nhìn thấy đường để kéo pháo, đơn vị đã cử ra 2 người khoác 2 mảnh vải trắng đi trước để làm “hoa tiêu”, cả đội cứ theo hai cái bóng sáng nhờ nhờ ấy mà kéo và đẩy pháo theo sau. Khoảnh khắc ấy, tất cả cán bộ chiến sỹ đều phải tập trung, bởi vì nếu người dẫn đường hoặc người kéo pháo chỉ cần sai khoảng 5 – 7 phân cũng có thể khiến cho cả người và pháo đều rơi xuống vực thẳm...”.
Khi kéo được pháo vào tới lòng chảo Điện Biên, không một chút nghỉ ngơi, cả tiêu đoàn tiến hành thiết lập xong thế trận pháo ngay trong ngày hôm đó. Nhưng ngay ngày hôm sau, tiểu đoàn cụ Cư nhận được lệnh hỏa tốc từ Sở Chỉ huy chiến dịch với nội dung là tất cả các đơn vị pháo phải kéo pháo quay ra vị trí cũ tập kết. “Khi nhận được lệnh này thì không chỉ riêng bác mà tất cả các anh em, đồng chí, đồng đội đều bàng hoàng, chân tay bủn rủn. Dường như, tất cả đều tự đặt ra cho mình một câu hỏi: Tại sao cấp trên lệnh kéo pháo vào để chiếm lĩnh trận địa, nhưng khi mọi việc vừa xong xuôi lại hạ lệnh kéo pháo ra vị trí cũ? Cả tiểu đoàn lúc đấy xôn xao những lời bàn tán về quyết định của Sở Chỉ huy chiến dịch”, cụ Cư nhớ lại.
Giữa lúc toàn bộ chiến sỹ đang bàng hoàng và bàn tán về quyết định đấy của Sở Chỉ huy thì đồng chí Phạm Đăng Thi, Chính trị viên tiểu đoàn nói: Chiến dịch Điện Biên Phủ không có gì thay đổi, toàn quân vẫn quyết tâm tiêu diệt địch để giải phóng Điên Biên, nhưng hiện nay về chiến lược, chiến thuật và phương châm tác chiến đã có thay đổi. Thời gian vừa qua, quân địch có nhiều động thái tăng cường lực lượng, cũng cố hệ thống phòng ngự... cho nên thực hiện phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” rất khó giành thắng lợi. Vì vậy, Sở Chỉ huy chiến dịch đã thay đổi phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc”, chia cắt địch thành từng mảng, chia cắt nguồn sinh lực địch rồi dần dần thắt chặt vòng vây, tiêu diệt từng cứ điểm của địch. Để bảo toàn lực lượng và vũ khí, chúng ta phải kéo pháo ra điểm tập kết để chờ thời cơ.
Xứng danh anh bộ đội Cụ Hồ
Vừa mới trải qua 9 ngày đêm gian khổ, ăn đói, mặc rét, chân tay đẫm máu, quần áo bê bết bùn đất để kéo pháo vào, chưa có thời gian nghỉ ngơi nên ai ai cũng mệt mỏi, mặt mày hốc hác. Song vì độc lập tự do của dân tộc, cụ Cư cùng tất cả chiến sỹ khác vẫn tràn đầy quyết tâm để kéo pháo quay lại 2 điểm tập kết cũ.
Tượng đài kéo pháo ở Nà Nhạn
Trời Điện Biên vẫn mưa, con đường đất đã bị cày nát trong lần kéo pháo vào và trở nên khó đi gấp bội. Nhưng quyết không lùi bước, cụ Cư và đồng đội lại ngày đêm kéo hàng chục khẩu pháo từ lòng chảo Điện Biên ra vị trí tập kết. Tuy nhiên, không phải lúc nào hành trình kéo pháo cũng gặp thuận lợi. Nói đến đây, cặp mắt cụ Cư rưng rưng, nhìn xa xăm, giọng nói nghẹn lại. Cụ kể: “Khi kéo pháo ra gần đến điểm tập kết, còn khẩu pháo cuối cùng do đồng chí Tô Vĩnh Diện cầm càng điều khiển đột nhiên bị đứt dây tời. Khẩu pháo mất thăng bằng, chao đảo, nghiêng xuống vực. Lúc đó, đồng chí Tô Vĩnh Diện đã vật xuống với khẩu pháo đó. Một con người bình thường với trọng lượng 60kg vật lộn với khẩu pháo nặng 2,4 tấn, anh ấy hô hào, gào thét rằng “cứu lấy khẩu pháo, không để pháo xuống vực”. Nói xong, anh Diện lấy thân mình chèn pháo không cho lăn xuống vực. Pháo được cứu, nhưng anh Diện hy sinh, đó là vào đêm 1/2/1954. Sự hy sinh của anh Tô Vĩnh Diện đã tiếp thêm động lực, lòng căm thù giặc của chúng tôi, chúng tôi đã hứa trước phần mộ của anh rằng sẽ tiêu diệt hết quân thù để trả thù cho anh, đưa lại cuộc sống bình yên cho nhân dân để xứng đáng với sự hy sinh cao cả của anh...”.
Sau khoảng 1 tháng ở chỗ tập kết Nà Nhạn, các tiểu đoàn lại nhận được lệnh của Sở Chỉ huy kéo pháo vào lần 2 để tổng lực đánh chiếm Điện Biên Phủ. Chiều tối ngày 13/3/1954, các tiểu đoàn pháo cao xạ đồng loạt khai hảo vào cứ điểm Him Lam, đồi Độc Lập. Với tinh thần chiến đấu anh dũng, ngày 16/3/1954, quân ta đã chiếm được phân khu 1 ở phía Bắc của địch, gồm: Him Lam, đồi Độc Lập và bản Kéo. Những ngày sau đó, Tiểu đoàn pháo cao xạ 383 ở phía đông dần tràn xuống phía nam bảo vệ cho bộ binh. Tiểu đoàn của cụ Cư ở phía Tây cũng thực hiện nhiệm vụ tương tự. Thế trận pháo cao xạ hình thành từ Bắc xuống đến Nam trở thành thế gọng kìm ôm lấy lòng chảo Điện Biên tạo thành lưới lửa phòng không. Đến ngày 7/5/1954, quân đội ta đã giải phóng Điện Biên, làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Cụ Phạm Đức Cư phục viên năm 1981. Sau khi phục viên, cụ tích cực tham gia vào lao động sản xuất, xây dựng vùng kinh tế mới ở Điện Biên. Cụ cũng tích cực tham gia vào các hoạt động đoàn thể ở địa phương như: Ban chấp hành Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi xã Thanh Xương, hội viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Điện Biên. Cụ đã có hơn 300 bài thơ, truyện ngắn... Sắp tới đây, cụ dự định sẽ xuất bản tập truyện ngắn “Kí ức Điện Biên” do chính mình viết. Dù ở vai trò nào, cụ luôn là người cựu chiến binh gương mẫu, xứng danh với truyền thống anh bộ đội Cụ Hồ.